Suy nghĩ về hướng phát triển Ngành Nhựa (chất dẻo) Việt Nam trong tương lai

Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến những đổi thay kỳ diệu do thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mang lại. Cùng với sự tiến bộ khoa học trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học thì công nghệ vật liệu mới, mà công nghiệp nhựa là một trong những ngành có nhiều ứng dụng, đã và đang phát triển không ngừng.

Công nghiệp nhựa là một ngành vật liệu mới có khả năng sản xuất ra nhiều loại sản phẩm được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân và thay thế cho các vật liệu truyền thống như sắt, thép, thủy tinh, gỗ, sành, sứ .... Do đặc tính ưu việt về trọng lượng nhẹ, hình thức mẫu mã đẹp, cơ lý tính tương đương vật liệu khác, giá rẻ nên các sản phẩm nhựa đã từng bước thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và cuộc sống.

Việc sử dụng vật liệu nhựa ở Việt Nam đã thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành sản xuất, nghiên cứu khoa học, dặc biệt trong các lĩnh vực chế tạo máy móc, xây dựng, vận tải, nông nghiệp. Trong công nghiệp điện, điện tử, Ô tô, người ta đã sử dụng các chi tiết, linh kiện bằng nhựa. Trong nông nghiệp, người ta dùng ống nhựa dẫn nước; màng nhựa che phủ cây trồng; bao bì nhựa cho các sản phẩm xuất khẩu (gạo, cà phê, thực phẩm tươi sống). Trong ngành thủy hải sản, ngoài việc sử dụng các bao bì màng mỏng cho chương trình xuất khẩu còn có thể ứng dụng vật liệu composit để chế tạo các loại tàu thuyền đánh bắt xa bờ. Trong ngành xây dựng, chúng ta đã dùng vật liệu xây dựng bằng nhựa thay sắt thép, (Lực biệt phụcvụ chương trình nhà ở cho đồng bào vùng lũ đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, các sản phẩm nhựa gia dụng như xô, chậu, rổ rá, chén, đĩa nhựa, bàn ghế, kệ nhựa, giày dép,... đã trở nên quá quen thuộc đối với người tiêu dùng. Cho đến nay, hàng nhựa gia dụng Việt Nam không những đã thay thế hầu hết hàng nhựa ngoại nhập mà còn trực tiếp tham gia xuất khẩu.

Năm 1989 đánh dấu một thời kỳ mới của ngành nhựa Việt Nam với tổng sản lượng nhựa toàn quốc bằng mức sản lượng toàn ngành đạt được từ trước năm 1975 là 50.000 tấn và bình quân chất dẻo là 0,77 kg/người; tương ứng năm 1995, đạt 280.000 tấn và 3,78 kg/người; năm 2000 đạt 950.000 tấn và 12,2 kg/người. Trong 10 năm ( 1990-2000), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành nhựa là 25-30%. Như vậy, chỉ trong vòng 10 năm, sản xuất của ngành công nghiệp nhựa đã gia tăng 20 lần.

 9on787gf_mvbk.jpg

 

Thời gian qua, tuy ngành nhựa có những bước phát triển vượt bậc nhưng cũng thể hiện những tồn tại cần khắc phục.

1. Những bài học kinh nghiệm về phát triển ngành nhựa 10 năm qua là:

- Cơ cấu ngành theo vùng lãnh thổ mất cân đối (75% ở TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương; 20% ở khu vực phía Bắc và 5% ở khu vực miền Trung). Sự phân bố mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ gây lãng phí và bất hợp lý về thị trường và chi phí vận chuyển, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh toàn ngành. Vai trò của Nhà nước và chính quyền địa phương cũng chưa thể hiện nhiều trong việc điều chỉnh cơ cấu này, phần lớn là do chưa có quy hoạch rõ ràng. Sự điều chỉnh tự nhiên thông qua thị trường diễn ra chậm chạp và có nhiều khó khăn, hạn chế.

- Cơ cấu sản phẩm nhựa còn bất cập. Trong 10 năm qua, đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị đã mang lại những thành công nhất định (nhiều thiết bị và công nghệ tiên tiến nhất của thế giới đã được áp dụng như chai 4 lớp, công nghệ in két bia tự động 4 mầu, công nghệ ép phun cho sản phẩm thành mỏng, công nghệ làm phôi và thổi chài PET hai công đoạn...). Tuy nhiên, công nghệ mới và thiết bị hiện đại cũng chỉ áp dụng ở một số ngành sản xuất sản phẩm nhựa cao cấp, nhựa kỹ thuật. Mặc dù, tỷ lệ sản phẩm nhựa kỹ thuật, nhựa làm vật liệu xây dựng có tăng lên nhưng sản phẩm nhựa gia dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao (42% năm 2000).

- Ngành nhựa mới chỉ tự túc được khoảng 10% nguyên liệu, còn lại phải nhập ngoại. Nhiều loại hóa chất phụ gia nhập ngoại tới 100%. Vì vậy, sự thăng trầm của ngành nhựa trong những năm qua tùy thuộc vào thị trường và giá cả nguyên liệu nhựa thế giới. Cơ sở hạ tầng của ngành nhựa chưa được chú ý phát triển. Năng lực của các cơ sở sản xuất chế tạo máy móc, thiết bị, khuôn mẫu cho ngành nhựa hầu như chưa có gì đáng kể. Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ ngành nhựa, công tác đào tạo, xây dựng lực lượng lao động có chất lượng cao ... cũng chưa được phát triển đúng mức.

- Chế độ chính sách tuy đã có nhiều đồi mới như khuyến khích đầu tư và xuất khẩu, nhưng cần được hoàn thiện. Trong thời gian qua, ngành nhựa Việt Nam"được" thả nổi hoàn toàn phát triển theo cơ chế thị trường, chủ yếu sử dụng vốn vay thương mại để tồn tại và phát triển. Chính sách thuế và việc áp thuế đối với hàng nhập khẩu là nguyên liệu cho ngành nhựa cần được xem xét và điều chỉnh cho phù hợp để hỗ trợ phát triển ngành trong tương lai.

- Việc tổ chức và sắp xếp sản xuất của ngành chưa được quan tâm chú ý của các cấp lãnh đạo. Công tác tổ chúc quản lý còn lỏng lẻo chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Trung ương và địa phương. Tổng Công ty Nhựa Việt Nam là đầu mối quản lý ngành nhựa, chỉ bao gồm 15 đơn vị thành viên (gồm cả hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc) trong khi tổng số các doanh nghiệp ngành nhựa tới 800 cơ sở. Tuy nhiên, đây là những đơn vị nòng cốt để phát triển ngành nhựa trong vài năm gần đây và tương lai. Tổ chức Hiệp hội hoạt động cũng chưa thật hiệu quả, chưa tạo dựng được sự gắn bó giữa các thành viên và chưa phối hợp được với Tổng Công ty một cách tích cực trong việc hướng dẫn thị trường tạo cơ hội cho sự phát triển ngành.

Tuy nhiên, tương lai của ngành nhựa có rất nhiều triển vọng: thị trường còn đang rộng mở, mức chất dẻo bình quân đầu người của Việt Nam năm 2000 chỉ bằng 20-30% mức bình quân của khu vực Đông Nam Á; thị trường nội địa còn nhiều cơ hội để phát triển cho rất nhiều sản phẩm nhựa kỹ thuật như: chi tiết bằng nhựa cho lắp ráp Ô tô, xe máy; nhựa composit cho tàu, ghe, xuồng máy; màng che phủ cho trồng trọt, màng nhựa thay cho nhà kính; bao bì cho thủy hải sản, chứa đựng thực phẩm; nhựa làm vật liệu xây dựng, khung nhà nhựa, kênh tưới tiêu bằng ống nhựa;v.v...

Ngành nhựa Việt Nam mà nòng cốt là Tổng Công ty nhựa Việt Nam phải có hướng phát triển như thế nào để trở thành một trong những ngành công nghiệp mạnh trong thập kỷ tới ? Nên chăng ngành nhựa cần nghĩ tới sự phát triển theo một quy hoạch tổng thể thống nhất, có phân công sắp xếp lại trong nội bộ ngành, hướng vào phát triển sản xuất những sản phẩm nhựa kỹ thuật phục vụ cho các ngành kinh tế khác và có được cơ sở hạ tầng vững chắc cho ngành nhựa trong tương lai.

nhuavn11.jpg

2. Phát triển ngành nhựa từ nay tới 2010 nên tập trung vào những hướng chủ yếu sau:

Một là, xây dựng quy hoạch phát triển ngành nhựa sẽ chú trọng tới việc lập lại sự cân đối năng lực sản xuất theo vùng lãnh thổ. Dự kiến, tới năm 2010 cơ cấu sản xuất theo các vùng Bắc, Trung, Nam là 35%, 15%, 50%. Tổng Công ty Nhựa Việt Nam sẽ là lực lượng chủ đạo trong việc hướng đầu tư phát triển ngành cân đối theo từng vùng lãnh thổ. Dự kiến, phía Bắc sẽ có thêm cụm công nghiệp nhựa mới hiện đại ở Hưng Yên. Tại đây sẽ đầu tư mới nhà máy chế tạo thiết bị khuôn mẫu cho ngành nhựa đòi hỏi công nghệ cao mà khu vực tư nhân không thể đảm nhận được và một số dự án sản xuất màng BOPP. Ngoài ra, các trung tâm nhựa ở Hầu Phòng, Hà Nội sẽ được đầu tư củng cố nâng cao năng lực sản xuất. Tại các khu công nghiệp quanh Hà Nội và Hải Phòng, ngành nhựa cũng sẽ có thêm các cơ sở sản xuất mới do nhu cầu mở rộng của các nhà máy cần di dời khỏi các trung tâm thành phố lớn đông dân. Khu vực miền Trung với trung tâm là Đà Nẵng sẽ đầu tư phát triển mạnh hơn, chủ yếu sản xuất nhựa gia dụng và các sản phẩm nhựa phục vụ nông nghiệp, thủy hải sản. Nơi đây cũng sẽ có thêm nhà máy sản xuất nguyên liệu khi khu công nghiệp Dung Quất đi vào hoạt động. Khu vực phía Nam với các trung tâm công nghiệp nhựa ở thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương tiếp tục được đầu tư để tăng năng lực sản xuất cả về sản phẩm và nguyên liệu. Đây vẫn là trung tâm nhựa lớn của cả nước.

Hai là, cơ cấu sản phẩm thay đổi theo hướng nâng dần tỷ trọng sản phẩm nhựa kỹ thuật, nhựa sử dụng cho các ngành kinh tế quốc dân khác, giảm tương đối tỷ trọng sản lượng  nhựa gia dụng. Sự phân công tổ chức sản xuất giữa các thành phần kinh tế sẽ ngày càng rõ rệt hơn. Các doanh nghiệp nhà nước lớn hướng vào sản xuất những sản phẩm nhựa kỹ thuật cao và nhựa phục vụ cho các ngành kinh tế khác cần vốn đầu tư lớn, chú trọng đầu tư vào nguyên liệu, khuôn mẫu phục vụ cho toàn ngành. Đầu tư nước ngoài chỉ khuyến khích vào các dự án nhựa kỹ thuật cao, vốn lớn và sản xuất trên 50% sản phẩm cho xuất khẩu. Các mặt hàng nhựa tiêu dùng sẽ chuyển dần cho khu vực kinh tế tư nhân sản xuất

Ba là, đầu tư cho ngành nhựa trong tương lai phải chú ý tới phát triển năng lực sản xuất nguyên liệu . Hướng tới năm 2010 ngành nhựa có thể tự túc 50% nguyên liệu trong nước. Dự kiến sẽ đầu tư xây dựng mới các nhà máy sản xuất LDPE và HDPE công suất khoảng 400.000 - 450.000 tấn/năm (1 nhà máy ở phía Nam và 2 nhà máy ở phía Bắc) với tổng vốn đầu tư vào khoảng hơn 700 triệu USD; các nhà máy sản xuất PP, (3 nhà máy ở 3 khu vực) với tổng công suất 750.000 - 800.000 tấn/năm và tổng vốn đầu tư khoảng hơn 400 triệu USD; 2 nhà máy sản xuất PS công suất 60.000 tấn/năm ( 1 nhà máy ở miền Bắc, 1 nhà máy ở miền Nam) tổng vốn đầu tư khoảng hơn 80 triệu USD; các nhà máy sản xuất màng BOPP công suất 12.000 tấn/năm ( 1 ở miền Bắc, 2 ở miền Nam) với tổng vốn đầu tư khoảng 51 triệu USD, ngoài ra có thể đầu tư thêm nhà máy phụ gia hóa chất cho ngành.

Bốn là, hướng tới hình thành nền công nghiệp chất dẻo thân môi trường. Một trong những mục tiêu phấn đấu của ngành nhựa tới năm 2010 là công nghiệp nhựa tái chế có thể đáp ứng được 10 - 20% nhu cầu về nguyên liệu cho ngành bao bì nhựa hàng năm (nhu cầu đến năm 2010 về bao bì nhựa cần thêm 800 ngàn tấn). Đầu tư một số nhà máy tái chế nhựa PP, PE, PVC và nhà máy sản xuất các loại phụ gia tự phân hủy cho ngành nhựa.

Năm là, Tổng Công ty Nhựa Việt Nam phải được kiện toàn và đầu tư để khẳng định vai trò nòng cốt trong phát triển ngành nhựa.Tổ chức quản lý ngành cần được quan tâm thích đáng ở mọi cấp. Nên hướng việc sắp xếp đổ imới tổ chức quản lý Tổng Công ty theo mô hình Công ty mẹ - con để nắm giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển ngành nhựa Việt Nam với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Phát huy vai trò của các Hiệp hội nhựa trong hỗ trợ thông tin, hội chợ trong nước và quốc tế, đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân thạo nghề cho các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự phát triển hiệu quả của toàn ngành nhựa. Sự hỗ trợ của Nhà nước cho sự phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành nhựa là hết sức cần thiết  như chính sách ưu đãi về vốn cho phát triển sản xuất cơ khí khuôn mẫu (như đối với ngành cơ khí), về ưu đãi thuê đất (cho các dự án sản xuất nguyên liệu), được hưởng một phần vốn ODA cho đào tạo ....

Sự phát triển ngành nhựa Việt Nam cần có sự gắn kết chặt chẽ với công nghiệp hóa chất và hóa dầu. Vì vậy quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp này phải có sự xâu chuỗi, hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển. Có thể nói tương lai của các ngành công nghiệp này còn nhiều hứa hẹn.

Danh sách bình luận

Gửi thông tin bình luận

Chúng tôi cam kết địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Danh sách chuyên mục

Tin tức nổi bật

Thưởng Tết 2019: '' Nổ '' mức cao nhất 350 triệu đồng
Giới thiệu Nhựa PVC Dẫn Điện
Ngày 25/12, khu vực TT-Huế đến Khánh Hòa tiếp tục có mưa
Lịch tường thuật trực tiếp trận giao hữu giữa ĐT VN và ĐT CHDCND Triều Tiên vào lúc 19h00 hôm nay 25/12 trên VTV6
Đường phố Hà Nội rực rỡ chào đón Giáng sinh
Báo châu Á khuyên Quang Hải nên xuất ngoại sau Asian Cup 2019
Giới thiệu Nhựa POM Dẫn Điện
Đề xuất thu phí khí thải: Phí chồng phí, xe máy ô tô gánh thêm phí mới?